Thực trạng tình hình viêm phổi bệnh viện
Trên thực tế, cần lưu ý rằng viêm phổi bệnh viện là những trường hợp viêm phổi xuất hiện ở người bệnh sau khi vào bệnh viện điều trị từ 48 giờ trở lên, không ở trong giai đoạn ủ bệnh hoặc mắc bệnh vào thời điểm nhập viện. Đây là một vấn đề rất khó khăn mà các khoa lâm sàng, đặc biệt là khoa hồi sức tích cực phải đối mặt vì khó chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa. Các dấu hiệu giúp chẩn đoán viêm phổi bệnh viện như thâm nhiễm phổi mới hoặc thâm nhiễm tiến triển kèm theo sốt, bạch cầu tăng, có đờm mủ không đặc hiệu. Đối với bệnh nhân người lớn, viêm phổi bệnh viện có liên quan đến thở máy là trường hợp viêm phổi mắc phải trong bệnh viện, xảy ra trong vòng 48 giờ sau khi đặt nội khí quản hay thở máy. Chẩn đoán viêm phổi mắc phải trong bệnh viện được xác định theo 3 tiêu chuẩn: viêm phổi xác định trên lâm sàng, viêm phổi do những vi khuẩn thường gặp và viêm phổi trên những người suy giảm miễn dịch.
Nếu cấy dịch khí quản có thể phát hiện mọc vi khuẩn do sự phát triển của vi khuẩn thường trú ở phần trên của đường hô hấp làm khó phân biệt giữa vi khuẩn thường trú và tác nhân gây bệnh thật sự dẫn đến việc điều trị dựa trên kết quả dương tính giả. Cấy vi khuẩn định lượng sau khi lấy đờm bằng phương pháp chải phế quản có bảo vệ hoặc phương pháp rửa phế nang có độ nhạy và độ đặc hiệu cao nhưng hiện nay phương pháp này chưa được ứng dụng một cách rộng rãi do nguồn lực còn hạn chế.
Theo các nhà khoa học, viêm phổi bệnh viện ở các nước đã phát triển chiếm tỷ lệ 15% tổng số trường hợp nhiễm khuẩn bệnh viện và chiếm 27% trong số các trường hợp nhiễm khuẩn bệnh viện ở khoa hồi sức tích cực. Trong các trường hợp viêm phổi bệnh viện, loại viêm phổi bệnh viện có liên quan đến thở máy được xác định sau khi thở máy từ 48 giờ trở lên chiếm tỷ lệ 90% đã làm kéo dài thời gian nằm viện và tốn kém chi phí điều trị. Tại nước ta, các nhà khoa học cũng ghi nhận viêm phổi bệnh viện chiếm tỷ lệ khoảng từ 21 đến 75% số các trường hợp nhiễm khuẩn bệnh viện; trong đó viêm phổi bệnh viện liên quan đến thở máy chiếm tỷ lệ đặc biệt cao ở nhóm người bệnh điều trị tại khoa hồi sức tích cực. Trên cơ sở này, các nhà khoa học cho rằng viêm phổi bệnh viện là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong chiếm tỷ lệ từ 30 đến 70% những trường hợp nhiễm khuẩn bệnh viện, đồng thời có thể kéo dài thời gian điều trị thêm từ 6 đến 13 ngày và tăng viện phí đến hàng chục triệu đồng cho một trường hợp bệnh nhân. Vì vậy việc thực hiện các biện pháp tổng hợp phòng ngừa viêm phổi bệnh viện rất cần thiết để giảm thiểu những nguy cơ dẫn đến tử vong.
Tác nhân và cơ chế gây viêm phổi bệnh viện
Tác nhân gây viêm phổi bệnh viện có thể khác nhau giữa các bệnh viện, vùng địa lý và phương pháp chẩn đoán. Có nhiều loại vi khuẩn gây bệnh nhưng phổ biến nhất là loại vi khuẩn gram âm hiếu khí như Pseudomonas aeruginosa, Acinetobacter spp, Klebsiella spp, Enterobacter spp, Escherichia coli, Providencia spp; vi khuẩn gram dương như Staphylococcus aureus, Streptococcus pneumoniae... Những loại vi khuẩn này thường kháng lại với nhiều loại thuốc nên gây khó khăn cho công tác điều trị. Thực tế tác nhân gây viêm phổi bệnh viện có liên quan đến việc thở máy xuất hiện sớm dưới 4 ngày thường do vi khuẩn ít đề kháng kháng sinh nhưng nếu xuất hiện muộn hơn thì thường do vi khuẩn đa kháng thuốc.
Trên thực tế, vi khuẩn xâm nhập vào phổi từ các chất dịch tiết của hầu họng, dịch dạ dày bị trào ngược, các dụng cụ hỗ trợ hô hấp hoặc bàn tay của nhân viên y tế và người nhà chăm sóc bệnh nhân bị ô nhiễm, đường máu và đường mạch bạch huyết... Các dụng cụ hỗ trợ hô hấp như bình làm ẩm khí oxy, máy khí dung, máy nội soi phế quản, phế dung ký, dụng cụ gây mê... là các ổ chứa vi khuẩn và cơ chế lây nhiễm có thể từ dụng cụ đến người bệnh, từ bệnh nhân này sang bệnh nhân khác, từ một vị trí của cơ thể đến đường hô hấp dưới của cùng một người bệnh qua bàn tay hoặc qua dụng cụ. Bóng ambu giúp thở cũng có thể là nguồn đưa vi khuẩn vào phổi người bệnh qua mỗi lần bóp bóng vì bóng rất khó rửa sạch và làm khô giữa các lần dùng và bóng còn có khả năng bị nhiễm khuẩn qua bàn tay của nhân viên y tế. Vì vậy cần thực hiện việc giảm nguy cơ lây nhiễm từ các loại dụng cụ y tế sử dụng lại bằng cách rửa sạch, khử khuẩn và tiệt khuẩn đúng cách. Các máy khí dung thường dùng để phun các loại thuốc giãn phế quản, thuốc kháng viêm corticoide cũng là nguồn gây viêm phổi bệnh viện vì máy có thể bị nhiễm khuẩn qua bàn tay của nhân viên y tế, bộ phận chứa thuốc của máy bị nhiễm khuẩn do không được khử khuẩn thích hợp giữa các lần dùng. Dây thở sử dụng với bộ phận làm ẩm là nguồn chứa vi khuẩn gây viêm phổi bệnh viện ở người bệnh thở máy, nước lắng đọng ở đường ống và tụ lại ở bộ phận bẫy nước có thể làm cho dây thở nhanh chóng bị nhiễm khuẩn do vi khuẩn xuất phát từ vùng miệng và hầu của bệnh nhân; vì vậy cần dẫn lưu tốt nước trong đường ống để tránh gây viêm phổi bệnh viện do nước bị nhiễm khuẩn ở trong đường ống chảy vào phổi người bệnh.
Tại các cơ sở điều trị, nguy cơ gây nên viêm phổi bệnh viện thường bao gồm các yếu tố khác nhau như: yếu tố thuộc về người bệnh, yếu tố do can thiệp y tế, yếu tố từ môi trường và dụng cụ. Mỗi yếu tố có những đặc điểm riêng biệt cần phải được quan tâm để có biện pháp xử trí phù hợp nhằm hạn chế sự lây nhiễm.
Biện pháp phòng ngừa viêm phổi bệnh viện
Để phòng ngừa viêm phổi bệnh viện, cần thực biện các biện pháp phối hợp chặt chẽ với nhau để mang lại hiệu quả cao như: tổ chức tập huấn và đào tạo chuyên môn, thực hiện việc kiểm tra và giám sát; khử khuẩn và tiệt khuẩn các dụng cụ hỗ trợ hô hấp gồm dụng cụ liên quan đến thở máy và hỗ trợ hô hấp khác, dụng cụ liên quan đến thở khí dung, dụng cụ liên quan đến máy gây mê; phòng ngừa lây nhiễm do nhân viên y tế, chăm sóc người bệnh hôn mê đúng cách để phòng ngừa viêm phổi do hít phải mầm bệnh; chăm sóc người bệnh có đặt nội khí quản, mở khí quản và có thông khí nhân tạo hỗ trợ khác đúng quy định; chăm sóc tốt đường hô hấp cho người bệnh trong thời gian hậu phẫu và các biện pháp phòng ngừa khác...
Khoa hồi sức tích cực là nơi dễ có nguy cơ gây viêm phổi bệnh viện (ảnh minh họa)
Mặc dù có nhiều biện pháp cần phối hợp thực hiện để mang lại hiệu quả tốt như đã nêu ở trên nhưng các biện pháp chính cần lưu ý để phòng ngừa viêm phổi bệnh viện là: Vệ sinh tay trước và sau khi tiếp xúc với người bệnh và bất kỳ dụng cụ hô hấp nào đang sử dụng cho người bệnh. Vệ sinh răng miệng cho bệnh nhân bằng bàn chải ngày 2 lần hoặc bằng gạc mỗi 2 đến 4 giờ một lần bằng dung dịch khử khuẩn. Rút các ống nội khí quản, ống mở khí quản, ống nuôi ăn, đồng thời xem xét việc ngưng sử dụng máy thở dùng cho bệnh nhân càng sớm càng tốt khi có chỉ định. Cho bệnh nhân nằm đầu cao với góc 30 đến 45 độ nếu không có chống chỉ định. Nên sử dụng loại dụng cụ chăm sóc hô hấp dùng một lần hoặc tiệt khuẩn hay khử khuẩn mức độ cao đối với các dụng cụ sử dụng lại cho người bệnh. Nên thường xuyên kiểm tra và đổ nước tồn lưu trong ống dây máy thở, bẫy nước dùng cho bệnh nhân. Dây thở phải để ở vị trí thấp hơn phần trên của ống nội khí quản. Thường xuyên kiểm tra tình trạng ứ đọng của dạ dày trước khi cho người bệnh ăn qua ống. Cần giám sát và phản hồi các trường hợp viêm phổi bệnh viện để có thống kê báo cáo đầy đủ nhằm rút được bài học kinh nghiệm.
Vấn đề cần quan tâm
Viêm phổi bệnh viện là vấn đề thực tế có khả năng xảy ra tại các cơ sở điều trị ở tất cả các tuyến, kể cả tuyến trên và tuyến trung ương với rất nhiều yếu tố nguy cơ ảnh hưởng; đặc biệt là khi người bị bệnh nặng có sử dụng các loại phương tiện, thiết bị, máy móc hỗ trợ cho việc hô hấp tại khoa hồi sức tích cực. Các nhà khoa học cho rằng tình trạng viêm phổi bệnh viện là nguyên nhân hàng đầu có khả năng dẫn đến tử vong cho người bệnh và có thể chiếm tỷ lệ từ 30 đến 70% trong tổng số các trường hợp nhiễm khuẩn bệnh viện. Vì vậy đây là vấn đề cần được quan tâm để thực hiện các biện pháp cần thiết, cơ bản nhằm giảm thiểu các nguy hại với trách nhiệm của nhân viên y tế, kể cả người nhà bệnh nhân khi tham gia điều trị và chăm sóc người bệnh.